(Diễn văn của cụ Phan Chu Trinh)
(tiếp)
Quân trị tức là nhân trị (người trị người)
Đây hãy nói tóm lại quân trị tức là nhân trị. Quân trị chủ nghĩa, tuy có pháp luật mặc lòng, nhưng mà pháp luật cứ tự tay vua lập ra, chứ còn dân thì không hay biêt gì hết. Vậy cho nên khi nào gặp ông vua thông minh anh hùng, hiểu được cái sự quan hệ giữa dân với nước là thế nào, mà trừng trị lũ quan tham lại nhũng, để cho dân được làm ăn, thì dân giàu nước mạnh, mà cái thì giờ của ông vua sống được bao nhiêu thì nước còn được thái bình bấy nhiêu.
Còn đến mấy ông vua hôn ám thì ông sống với đàn bà con gái, với bọn hoạn quan, còn biết gì đến nước trao chính quyền vào trong tay mấy đứa nịnh thần, người đã hư thì nước cũng đổ thôi. Cho nên ông Khổng Tử có nói rằng: “Văn võ chi chính bố tại phương sách, kỳ nhân tồn tắc kỳ chánh cử, kỳ nhân vong tắc kỳ chính tức”, nghĩa là cái chính trị vua Văn vua Võ còn chép ở trong sách, có người chính trị giỏi thì cái chính trị trong sách đó mới thi hành ra, nết không có người giỏi thì cái chíng trị ấy mất. Tuân Tử thì nói rằng: “Hữu trị nhân, vô trị pháp” nghĩa là có người hay làm hay chứ không có cái pháp luật nào là hay được. Ông Mạnh thì kiêm cả hai ông mà nói rằng: “Đồ thiện bất túc dĩ vi chính, đồ pháp năng dĩ tự hành”, nghĩa là có người giỏi mà không có pháp luật thì cũng không làm chính trị được, có pháp luật mà không có người giỏi thì pháp luật cũng không tự làm lấy được.
Mấy nghìn năm nay, mấy ông vua giỏi, tướng giỏi hết sức mà tránh cho khỏi cái chữ quân trị là nhân trị, nhưng mà không được, là vì lập phép này phép kia cũng là tự tay vua, đến khi đạp đổ đi cũng tự tay vua.
Ấy tôi nói những ông vua biết lo mà chữa cho khỏi chữ nhân trị là từ đời Tống, đời Đường sắp lên, những ông vua hiền minh thì thế. Còn từ đó sắp xuống thì chuyên chế quá lắm. Xem như ông Minh Thái Tổ đặt ra cái luật “hữu tài bất vi quân dụng”. Nghĩa là đặt ra cái luật hễ ai không ra cho vua dùng là có tội. Ấy là để bắt người ta phải ra cho mình áp chế hết cả, chớ không cho ai ở ẩn nữa. Về đời Càn Long lại đặt ra luật “yêu quân” nghĩa là có tài mà buộc vua cầu cạnh mình thì có tội. Những cái luật đó thì có ích gì cho dân tộc, cho nhà nước đâu, chỉ làm sướng cái óc kiêu ngạo, làm cho sướng cái xác thịt của ông “Hoàng Đế” đó thôi.
Vua đời xưa thì còn cầu hạ sĩ, chứ còn vua sau thì cứ nằm ngửa đó, thằng nào có tài mà không ra cho tao dùng thì tao bỏ tù, thì còn gì sang trọng hơn nữa.
Từ nãy đến giờ tôi nói về lịch sử và triết học quân trị là nhân trị. Đây tôi xin kể thêm vài cái chứng thật cho anh em dễ hiểu. Nhân trị là cai trị một cách rộng rãi hay là nghiêm khắc chỉ tùy theo lòng vui, buồn, thương ghét của một ông vua mà thôi, pháp luật tuy có cũng như không.
Thí dụ như ông Gia Long lấy cái luật của đời Càn Long nước Tàu để cai trị dân Việt Nam; trong cái luật đó nói rằng: “phí công quân bất hầu”, nghĩa là không có công đáng được giặc thì không phong tước hầu. Vậy thì ông Nguyễn Văn Thành phong tước hầu, à làm đến trung quân, chẳng qua do ông Gia Long vui trí mà cho đó thôi, chứ không phải ông Gia Long có lòng công bình mà xét cho cái công trạng của ông ấy theo đánh giặc từ nhỏ đến lớn. Sao tôi dám nói vậy? Bởi vì sau đó con ông Thành làm một bài thơ chơi, nghĩ cũng chẳng tội lỗi gì, mà ông Gia Long không biết tới ba họ. Như vậy chẳng qua khi cơn giận ông lên thì ông giết, chớ có pháp luật gì đâu.
Tôi nhắc qua một cái tích của ông Tự Đức mà tôi đã nói ở trên. Năm Tự Đức thứ 25, dân Trung phần chết đói, nhà nước đã lo phát chẩn được một ít rồi, các quan lại xin trích tiền thuế trong các tỉnh, các chủ huyện để trữ lại trong xã thương các làng, phòng năm khác dân có đói chăng, thì ông ta cho dân được đem tiền đem lúa ra nạp quyên mà lấy chức Bá hộ, Bát phẩm, Cửu phẩm. Nhưng mà xuống dụ các quan cho dân quyên chịu đã, nghĩa là số quyên một nghìn quan tiền thì cứ đóng trước đi 300 quan rồi phát bằng cho đã, chừng nào đóng đủ số tiền thì sẽ phong sắc cho. Còn tiền đóng thì cứ để lại cho các làng ấy. Cái dụ xuống rõ ràng như thế. Cách một năm thì thấy cái dụ khác kể hết tiền chưa đóng và đã đóng rồi, bắt phải đem hết ra tỉnh để cấp cho lính đánh giặc. Tỉnh sức xuống phủ huyện, phủ huyện sức xuống các làng. Dân trả lời rằng vua cho quyên chịu, chớ không bắt đóng ngay, năm này mất mùa dân không chịu đóng, làm gì nó cũng không có mà đóng. Quan tỉnh tư Bộ, bộ tâu vua, vua phán phải làm tội hết những dân ấy. Nhưng trong luật Việt Nam những cái luật tiền bạc thuộc về dân qua lại với nhà nước thì ít thấy lắm, các quan không biết theo mặt luật gì mà làm án, phải tâu lên vua hỏi phải làm án gì, nhà vua bawst phải làm theo luật “thượng thư bất dĩ thiệt” nghĩa là chiếu theo luật các quan dâng thư cho vua nói về chính trị mà không thật. Quan Bộ cứ đó mà làm tội. Đến khi tư về các tỉnh, người thì sáu năm, người thì tám năm, người thì mười hai năm tù. Gia dĩ đang đi đói khát, cha xa con, vợ bỏ chồng, tưởng quyên cái Bát, Cửu phẩm để lấy làm vui, hay đâu không được vui mà lại phải ở tù. May đâu cái án đó đi đến Quảng Ngãi, gặp một ông Án Sát, ông ấy thì giỏi luật lệ mà có lòng thương dân, lo việc nước (ông ấy là người Bến Tre về tỉnh Vĩnh Long tên là Nguyễn Thông hiệu Kỳ Xuyên, sau lục tỉnh mất thì ông chạy ra Phan Thiết.) Ông ấy cứ từ từ mà bẻ hết cái án, rồi ông gửi trả lại cho Bộ, ông nói rằng: “cái vụ này chỉ có vua với quan dối dân, chứ dân không nói dối ai chút nào cả”. Còn chiếu theo luật “thượng thư bất dĩ thật” thì không đúng vào đâu cả. Ông Tự Đức biết mình lỗi, nhưng mà mắc cỡ xui cho người khác kiện ông Nguyễn Thông rồi cách chức ông đi, muốn trị tội nặng. Nhưng dân Quảng Ngãi và dân các tỉnh hết sức bênh vực ông ta, cho nên cũng chẳng làm hại ông được, chỉ đuổi ông ta đi mà thôi.
Đây nói lược qua một hai điều cho các Ngài nghe, chứ tôi kể hết cái sử Tàu và Việt Nam thì mấy ngày không hết.
(còn nữa)
Các phần [ 1 ] [ 2a ] [ 2b ] [ 3 ] [ 4 ] [ 5 ] [ 6 ] [ 7 ] [ 8 ] [ 9 ] [ 10 ]